I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. There Ven. Sariputta addressed the monks, saying,
-"Friend monks!"



Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Hiền giả Tỷ-kheo!

 

"Yes, friend," the monks responded.



– Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sariputta.

 

Ven. Sariputta said:
-"Friends, just as the footprints of all legged animals are encompassed by the footprint of the elephant, and the elephant's footprint is reckoned the foremost among them in terms of size; in the same way, all skillful qualities are gathered under the four noble truths. Under which four? Under the noble truth of stress, under the noble truth of the origination of stress, under the noble truth of the cessation of stress, and under the noble truth of the path of practice leading to the cessation of stress.



Tôn giả Sariputta nói như sau:
– Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loại động vật đều thâu nhiếp trong dấu chân voi, v́ dấu chân này được xem là lớn nhất trong tất cả dấu chân về phương diện to lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các Thiện pháp đều tập trung trong Bốn Thánh đế. Thế nào là trong Bốn Thánh đế? Trong Khổ Thánh đế, trong Khổ tập Thánh đế, trong Khổ diệt Thánh đế, trong Khổ diệt đạo Thánh đế.

 

"And what is the noble truth of stress? Birth is stressful, aging is stressful, death is stressful; sorrow, lamentation, pain, distress, & despair are stressful; association with the unbeloved is stressful, separation from the loved is stressful, not getting what is wanted is stressful. In short, the five clinging-aggregates are stressful. And which are the five clinging-aggregates? The form clinging-aggregate, the feeling clinging-aggregate, the perception clinging-aggregate, the fabrication clinging-aggregate, & the consciousness clinging-aggregate.



Chư Hiền, thế nào là Khổ Thánh đế? Sanh là khổ, già là khổ, chết là khổ, sầu, bi, khổ, ưu, năo là khổ, điều ǵ cầu không được là khổ, tóm lại Năm thủ uẩn là khổ. Chư Hiền, thế nào là Năm thủ uẩn? Chính là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn, thức thủ uẩn.

 

"And what is the form clinging-aggregate? The four great existents and the form derived from them. And what are the four great existents? The earth property, the liquid property, the fire property, & the wind property.



Chư Hiền, thế nào là sắc thủ uẩn? Bốn đại và sắc khởi lên từ bốn đại. Chư Hiền, thế nào là bốn đại? Chính là địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới.

 

The Earth Property



Địa giới

 

"And what is the earth property? The earth property can be either internal or external. Which is the internal earth property? Whatever internal, within oneself, is hard, solid, & sustained [by craving]: head hairs, body hairs, nails, teeth, skin, flesh, tendons, bones, bone marrow, kidneys, heart, liver, pleura, spleen, lungs, large intestines, small intestines, contents of the stomach, feces, or whatever else internal, within oneself, is hard, solid, & sustained: This is called the internal earth property. Now both the internal earth property and the external earth property are simply earth property. And that should be seen as it actually is with right discernment: 'This is not mine, this is not me, this is not my self.' When one sees it thus as it actually is with right discernment, one becomes disenchanted with the earth property and makes the mind dispassionate toward the earth property.


Chư Hiền, thế nào là địa giới? Có nội địa giới, có ngoại địa giới. Chư Hiền, thế nào là nội địa giới? Cái ǵ thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bao tử, phân, và bất cứ vật ǵ khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thô phù, kiên cứng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội địa giới. Những ǵ thuộc nội địa giới và những ǵ thuộc ngoại địa giới đều thuộc về địa giới. Cần phải như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi". Sau khi như thật quán sát địa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với địa giới, tâm từ bỏ địa giới.

 

"Now there comes a time, friends, when the external liquid property is provoked,1 and at that time the external earth property vanishes. So when even in the external earth property — so vast — inconstancy will be discerned, destructibility will be discerned, a tendency to decay will be discerned, changeability will be discerned, then what in this short-lasting body, sustained by clinging, is 'I' or 'mine' or 'what I am'? It has here only a 'no.'



Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, trong thời ấy ngoại địa giới bị biến mất. Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại địa giới xưa ấy có thể nêu rơ, tánh hủy hoại có thể nêu rơ, tánh đoạn diệt có thể nêu rơ, tánh biến dịch có thể nêu rơ. Như vậy c̣n nói ǵ đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có ǵ để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

 

"Now if other people insult, malign, exasperate, & harass a monk [who has discerned this], he discerns that 'A painful feeling, born of ear-contact, has arisen within me. And that is dependent, not independent. Dependent on what? Dependent on contact.' And he sees that contact is inconstant, feeling is inconstant, perception is inconstant, consciousness is inconstant. His mind, with the [earth] property as its object/support, leaps up, grows confident, steadfast, & released.



Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu năo Tỷ-kheo, vị ấy biết rơ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi, thọ này thuộc tai xúc chạm, thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên, do nhân duyên ǵ? Do nhân duyên xúc". Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy thọ là vô thường, thấy tưởng là vô thường, thấy hành là vô thường, thấy thức là vô thường. Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng.

 

"And if other people attack the monk in ways that are undesirable, displeasing, & disagreeable — through contact with fists, contact with stones, contact with sticks, or contact with knives — the monk discerns that 'This body is of such a nature contacts with fists come, contacts with stones come, contacts with sticks come, & contacts with knives come. Now the Blessed One has said, in his exhortation of the simile of the saw [MN 21], "Monks, even if bandits were to carve you up savagely, limb by limb, with a two-handled saw, he among you who let his heart get angered even at that would not be doing my bidding." So my persistence will be aroused & untiring, my mindfulness established & unconfused, my body calm & unaroused, my mind centered & unified. And now let contact with fists come to this body, let contact with stones, with sticks, with knives come to this body, for this is how the Buddha's bidding is done.'


Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy tuệ tri như sau: "Sự thể của thân này là như vậy, nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm. Thế Tôn đă dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân. Nếu ai ở đây sanh ư phẫn nộ, người ấy không làm đúng lời Ta dạy". Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đăi. Niệm được an trú không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tỉnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm thân này, mặc cho gậy xúc chạm thân này, mặc cho gươm xúc chạm thân này, lời dạy chư Phật cần phải được thực hành.

 

"And if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.' Just as when a daughter-in-law, on seeing her father-in-law, feels apprehensive and gives rise to a sense of urgency [to please him], in the same way, if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.'


Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú".

 

"But if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is established, then he is gratified at that. And even to this extent, friends, the monk has accomplished a great deal.


Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú, th́ Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, đến mức độ này, Tỷ-kheo đă làm thật nhiều.

 

The Liquid Property



Thuỷ giới

 

"And what is the liquid property? The liquid property may be either internal or external. What is the internal liquid property? Whatever internal, belonging to oneself, is liquid, watery, & sustained: bile, phlegm, pus, blood, sweat, fat, tears, skin-oil, saliva, mucus, fluid in the joints, urine, or whatever else internal, within oneself, is liquid, watery, & sustained: This is called the internal liquid property. Now both the internal liquid property and the external liquid property are simply liquid property. And that should be seen as it actually is present with right discernment: 'This is not mine, this is not me, this is not my self.' When one sees it thus as it actually is present with right discernment, one becomes disenchanted with the liquid property and makes the mind dispassionate toward the liquid property.


Chư Hiền, thế nào là thủy giới? Có nội thủy giới, có ngoại thủy giới. Chư Hiền thế nào là nội thủy giới? Cái ǵ thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ, như mật, (viêm đàm dịch) mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, nước mủ, nước ở khớp xương, nước tiểu, và bất cứ vật ǵ khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc nước, thuộc chất lỏng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội thủy giới. Những ǵ thuộc nội thủy giới và những ǵ thuộc ngoại thủy giới, đều thuộc về thủy giới. Cần phải như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi". Sau khi như thật quán sát thủy giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với thủy giới, tâm từ bỏ thủy giới.

 

"Now there comes a time, friends, when the external liquid property is provoked and washes away village, town, city, district, & country. There comes a time when the water in the great ocean drops down one hundred leagues, two hundred leagues, three hundred leagues, four hundred leagues, five hundred leagues, six hundred leagues, seven hundred leagues. There comes a time when the water in the great ocean stands seven palm-trees deep, six palm-trees deep, five palm-trees deep, four palm-trees deep, three palm-trees deep, two palm-trees deep, one palm-tree deep. There comes a time when the water in the great ocean stands seven fathoms deep, six fathoms deep, five fathoms deep, four fathoms deep, three fathoms deep, two fathoms deep, one fathom deep. There comes a time when the water in the great ocean stands half a fathom deep, hip-deep, knee-deep, ankle deep. There comes a time when the water in the great ocean is not even the depth of the first joint of a finger.


Chư Hiền, một thời xảy ra khi ngoại thủy giới dao động, nước cuốn trôi làng, cuốn trôi thị trấn, cuốn trôi thành phố, cuốn trôi xứ, cuốn trôi quốc độ. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương hạ thấp một trăm do-tuần, hạ thấp hai trăm do-tuần, hạ thấp ba trăm do-tuần, hạ thấp bốn trăm do-tuần, hạ thấp năm trăm do-tuần, hạ thấp sáu trăm do-tuần, hạ thấp bảy trăm do-tuần. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến bảy cây ta-la, dâng cao đến sáu cây ta-la, dâng cao đến năm cây ta-la, dâng cao đến bốn cây ta-la, dâng cao đến b ây ta-la, dâng cao đến hai cây ta-la, dâng cao chỉ đến một cây ta-la. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương cao đến bảy đầu người, dâng cao đến sáu đầu người, dâng cao đến năm đầu người, dâng cao đến bốn đầu người, dâng cao đến ba đầu người, dâng cao đến hai đầu người, dâng cao chỉ đến một đầu người. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương dâng cao đến nửa thân người, dâng cao chỉ đến hông, dâng cao chỉ đến đầu gối, dâng cao chỉ đến gót chân. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi nước biển đại dương không có để thấm ướt lóng tay.

 

"So when even in the external liquid property — so vast — inconstancy will be discerned, destructibility will be discerned, a tendency to decay will be discerned, changeability will be discerned, then what in this short-lasting body, sustained by clinging, is 'I' or 'mine' or 'what I am'? It has here only a 'no.'


Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại thuỷ giới xưa ấy có thể nêu rơ, tánh hủy hoại có thể nêu rơ, tánh đoạn diệt có thể nêu rơ, tánh biến dịch có thể nêu rơ. Như vậy c̣n nói ǵ đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có ǵ để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

 

"Now if other people insult, malign, exasperate, & harass a monk [who has discerned this], he discerns that 'A painful feeling, born of ear-contact, has arisen within me. And that is dependent, not independent. Dependent on what? Dependent on contact.' And he sees that contact is inconstant, feeling is inconstant, perception is inconstant, consciousness is inconstant. His mind, with the [liquid] property as its object/support, leaps up, grows confident, steadfast, & released.


Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu năo Tỷ-kheo, vị ấy biết rơ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi, thọ này thuộc tai xúc chạm, thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên, do nhân duyên ǵ? Do nhân duyên xúc". Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy thọ là vô thường, thấy tưởng là vô thường, thấy hành là vô thường, thấy thức là vô thường. Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng.

 

"And if other people attack the monk in ways that are undesirable, displeasing, & disagreeable — through contact with fists, contact with stones, contact with sticks, or contact with knives — the monk discerns that 'This body is of such a nature contacts with fists come, contacts with stones come, contacts with sticks come, & contacts with knives come. Now the Blessed One has said, in his exhortation of the simile of the saw, "Monks, even if bandits were to carve you up savagely, limb by limb, with a two-handled saw, he among you who let his heart get angered even at that would not be doing my bidding." So my persistence will be aroused & untiring, my mindfulness established & unconfused, my body calm & unaroused, my mind centered & unified. And now let contact with fists come to this body, let contact with stones, with sticks, with knives come to this body, for this is how the Buddha's bidding is done.'


Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy tuệ tri như sau: "Sự thể của thân này là như vậy, nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm. Thế Tôn đă dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân. Nếu ai ở đây sanh ư phẫn nộ, người ấy không làm đúng lời Ta dạy". Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đăi. Niệm được an trú không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tỉnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm thân này, mặc cho gậy xúc chạm thân này, mặc cho gươm xúc chạm thân này, lời dạy chư Phật cần phải được thực hành.

 

"And if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.' Just as when a daughter-in-law, on seeing her father-in-law, feels apprehensive and gives rise to a sense of urgency [to please him], in the same way, if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.'


Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú".

 

"But if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is established, then he is gratified at that. And even to this extent, friends, the monk has accomplished a great deal.

Chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú, th́ Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, đến mức độ này, Tỷ-kheo đă làm thật nhiều.

 

The Fire Property



Hoả giới

 

"And what is the fire property? The fire property may be either internal or external. What is the internal fire property? Whatever internal, belonging to oneself, is fire, fiery, & sustained: that by which [the body] is warmed, aged, & consumed with fever; and that by which what is eaten, drunk, chewed, & savored gets properly digested, or whatever else internal, within oneself, is fire, fiery, & sustained: This is called the internal fire property. Now both the internal fire property and the external fire property are simply fire property. And that should be seen as it actually is present with right discernment: 'This is not mine, this is not me, this is not my self.' When one sees it thus as it actually is present with right discernment, one becomes disenchanted with the fire property and makes the mind dispassionate toward the fire property.


Chư Hiền, thế nào là hỏa giới? Có nội hỏa giới, có ngoại hỏa giới. Chư Hiền, thế nào là nội hỏa giới? Cái ǵ thuộc về nội thân, thuộc về cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Như cái ǵ khiến cho hâm nóng, khiến cho hủy hoại, khiến cho thiêu cháy; cái ǵ khiến cho những vật được ăn uống, nhai, nếm, có thể khéo tiêu hóa, hay tất cả những vật ǵ khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc lửa, thuộc chất nóng, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội hỏa giới. Những ǵ thuộc nội hỏa giới và những ǵ thuộc ngoại hỏa giới, đều thuộc về hỏa giới. Cần phải như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi". Sau khi như thật quán sát hỏa giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với hỏa giới, tâm từ bỏ hỏa giới.

 

Now there comes a time, friends, when the external fire property is provoked and consumes village, town, city, district, & country; and then, coming to the edge of a green district, the edge of a road, the edge of a rocky district, to the water's edge, or to a lush, well-watered area, goes out from lack of sustenance. There comes a time when people try to make fire using a wing-bone & tendon parings.2


Chư Hiền, một thời xẩy ra khi hỏa giới dao động. Lửa thiêu cháy làng, thiêu cháy thị trấn, thiêu cháy thành phố, thiêu cháy xứ, thiêu cháy quốc độ. Lửa cháy cho đến cuối hàng cây cối, cho đến cuối hàng đường lớn, cho đến cuối hàng chân núi, cho đến cuối hàng thủy biên, hay cho đến cuối hàng khu đất khả ái, rồi lửa bị tắt v́ không nhiên liệu. Chư Hiền, một thời xảy ra khi loài người đi kiếm lửa phải dùng lông gà và dây gân.

 

"So when even in the external fire property — so vast — inconstancy will be discerned, destructibility will be discerned, a tendency to decay will be discerned, changeability will be discerned, then what in this short-lasting body, sustained by clinging, is 'I' or 'mine' or 'what I am'? It has here only a 'no.'


Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại hoả giới xưa ấy có thể nêu rơ; tánh hủy hoại có thể nêu rơ; tánh đoạn diệt có thể nêu rơ; tánh biến dịch có thể nêu rơ. Như vậy c̣n nói ǵ đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có ǵ để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

 

"Now if other people insult, malign, exasperate, & harass a monk [who has discerned this], he discerns that 'A painful feeling, born of ear-contact, has arisen within me. And that is dependent, not independent. Dependent on what? Dependent on contact.' And he sees that contact is inconstant, feeling is inconstant, perception is inconstant, consciousness is inconstant. His mind, with the [fire] property as its object/support, leaps up, grows confident, steadfast, & released.



Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu năo Tỷ-kheo, vị ấy biết rơ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi, thọ này thuộc tai xúc chạm, thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên, do nhân duyên ǵ? Do nhân duyên xúc". Vị ấy thấy xúc là vô thường, thấy thọ là vô thường, thấy tưởng là vô thường, thấy hành là vô thường, thấy thức là vô thường. Tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng.

 

"And if other people attack the monk in ways that are undesirable, displeasing, & disagreeable — through contact with fists, contact with stones, contact with sticks, or contact with knives — the monk discerns that 'This body is of such a nature contacts with fists come, contacts with stones come, contacts with sticks come, & contacts with knives come. Now the Blessed One has said, in his exhortation of the simile of the saw, "Monks, even if bandits were to carve you up savagely, limb by limb, with a two-handled saw, he among you who let his heart get angered even at that would not be doing my bidding." So my persistence will be aroused & untiring, my mindfulness established & unconfused, my body calm & unaroused, my mind centered & unified. And now let contact with fists come to this body, let contact with stones, with sticks, with knives come to this body, for this is how the Buddha's bidding is done.'

Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau: "Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm". Thế Tôn đă dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ư phẫn nộ th́ người ấy không làm đúng lời ta dạy". Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đăi, niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải được thực hành".

 

"And if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.' Just as when a daughter-in-law, on seeing her father-in-law, feels apprehensive and gives rise to a sense of urgency [to please him], in the same way, if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.'


Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú".

 

"But if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is established, then he is gratified at that. And even to this extent, friends, the monk has accomplished a great deal.


Chư Hiền, nếu Tỷ- Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú. Do vậy, Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đă làm thật nhiều.

 

The Wind Property



Phong giới

 

"And what is the wind property? The wind property may be either internal or external. What is the internal wind property? Whatever internal, belonging to oneself, is wind, windy, & sustained: up-going winds, down-going winds, winds in the stomach, winds in the intestines, winds that course through the body, in-&-out breathing, or whatever else internal, within oneself, is wind, windy, & sustained: This is called the internal wind property. Now both the internal wind property and the external wind property are simply wind property. And that should be seen as it actually is present with right discernment: 'This is not mine, this is not me, this is not my self.' When one sees it thus as it actually is present with right discernment, one becomes disenchanted with the wind property and makes the mind dispassionate toward the wind property.


Chư Hiền, thế nào là phong giới? Có nội phong giới, có ngoại phong giới. Chư Hiền, thế nào là nội phong giới? Cái ǵ thuộc về nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc động tánh, bị chấp thủ, như gió thổi lên, gió thổi xuống, gió trong ruột, gió trong bụng dưới, gió thổi ngang các chi tiết (tay chân), hơi thở vô, hơi thở ra, và bất cứ vật ǵ khác thuộc nội thân, thuộc cá nhân, thuộc gió, thuộc tánh động, bị chấp thủ. Chư Hiền, như vậy gọi là nội phong giới. Những ǵ thuộc nội phong giới và những ǵ thuộc ngoại phong giới đều thuộc về phong giới. Cần phải như thật quán sát phong giới với chánh trí tuệ như sau: "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngă của tôi". Sau khi thấy như thật phong giới với chánh trí tuệ như vậy, vị ấy sanh yểm ly đối với phong giới, tâm từ bỏ phong giới.

 

"Now there comes a time, friends, when the external wind property is provoked and blows away village, town, city, district, & country. There comes a time when, in the last month of the hot season, people try to start a breeze with a fan or bellows, and even the grass at the fringe of a thatch roof doesn't stir.


Chư Hiền, một thời xẩy ra khi ngoại phong giới dao động, gió thổi bay làng, thổi bay thị trấn, thổi bay thành phố, thổi bay xứ, thổi bay quốc độ. Chư Hiền, một thời xẩy ra khi trong tháng cuối mùa hạ, loài người t́m cầu gió nhờ lá cây ta-la, nhờ cây quạt, và người ta không mong t́m được cỏ tại chỗ có rạch nước chảy.

 

"So when even in the external wind property — so vast — inconstancy will be discerned, destructibility will be discerned, a tendency to decay will be discerned, changeability will be discerned, then what in this short-lasting body, sustained by clinging, is 'I' or 'mine' or 'what I am'? It has here only a 'no.'


Chư Hiền, tánh vô thường của ngoại phong giới xưa ấy có thể nêu rơ; tánh hủy hoại có thể nêu rơ; tánh đoạn diệt có thể nêu rơ; tánh biến dịch có thể nêu rơ. Như vậy c̣n nói ǵ đến thân thể yểu thọ do khát ái chấp thủ này? Ở đây không có ǵ để có thể nói là tôi, là của tôi, hay tôi là.

 

"Now if other people insult, malign, exasperate, & harass a monk [who has discerned this], he discerns that 'A painful feeling, born of ear-contact, has arisen within me. And that is dependent, not independent. Dependent on what? Dependent on contact.' And he sees that contact is inconstant, feeling is inconstant, perception is inconstant, consciousness is inconstant. His mind, with the [wind] property as its object/support, leaps up, grows confident, steadfast, & released.


Chư Hiền, nếu có những người khác mắng nhiếc, chỉ trích, chọc tức, nhiễu năo Tỷ-kheo, vị ấy biết rơ như sau: "Khổ thọ khởi lên nơi tôi này thuộc tai xúc chạm; thọ này do nhân duyên, không phải không do nhân duyên. Do nhân duyên ǵ? Do nhân duyên xúc vậy". Vị ấy thấy xúc là vô thường; vị ấy thấy thọ là vô thường; vị ấy thấy tưởng là vô thường; vị ấy thấy hành là vô thường; vị ấy thấy thức là vô thường; tâm của vị này hoan hỷ, thích thú, tịnh chỉ, quyết định, tùy thuộc giới đối tượng.

 

"And if other people attack the monk in ways that are undesirable, displeasing, & disagreeable — through contact with fists, contact with stones, contact with sticks, or contact with knives — the monk discerns that 'This body is of such a nature contacts with fists come, contacts with stones come, contacts with sticks come, & contacts with knives come. Now the Blessed One has said, in his exhortation of the simile of the saw, "Monks, even if bandits were to carve you up savagely, limb by limb, with a two-handled saw, he among you who let his heart get angered even at that would not be doing my bidding." So my persistence will be aroused & untiring, my mindfulness established & unconfused, my body calm & unaroused, my mind centered & unified. And now let contact with fists come to this body, let contact with stones, with sticks, with knives come to this body, for this is how the Buddha's bidding is done.'


Chư Hiền, nếu những người khác xử sự với Tỷ-kheo, không có hoàn hảo, không có tốt đẹp, không có khả ái, hoặc dùng tay xúc chạm, hoặc dùng đá xúc chạm, hoặc dùng gậy xúc chạm, hoặc dùng gươm xúc chạm, vị ấy biết như sau: "Sự thể của thân này là như vậy nên tay có thể xúc chạm, đá có thể xúc chạm, gậy có thể xúc chạm, gươm có thể xúc chạm". Thế Tôn đă dạy như sau trong ví dụ cái cưa: "Chư Tỷ-kheo, nếu có kẻ trộm cướp hạ tiện lấy cái cưa hai lưỡi cắt từng phần tay và chân, nếu ai ở đây sanh ư phẫn nộ th́ người ấy không làm đúng lời ta dạy". Ta sẽ tinh cần, tinh tấn, không dải đăi, niệm được an trú, không có loạn niệm, thân thể được khinh an, không dao động, tâm được định tĩnh nhất tâm. Nay mặc cho tay xúc chạm thân này, mặc cho đá xúc chạm, mặc cho gậy xúc chạm, mặc cho gươm xúc chạm thân này. Lời dạy chư Phật cần phải được thực hành".

 

"And if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.' Just as when a daughter-in-law, on seeing her father-in-law, feels apprehensive and gives rise to a sense of urgency [to please him], in the same way, if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established, he feels apprehensive at that and gives rise to a sense of urgency: 'It is a loss for me, not a gain; ill-gotten for me, not well-gotten, that when I recollect the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is not established within me.'


Chư Hiền, Tỷ-kheo ấy, niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú". Chư Hiền, ví như một người dâu, khi thấy ông nhạc, bị dao động, bị dao động mạnh. Cũng vậy, chư Hiền, nếu Tỷ-kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú. Do vậy, vị ấy bị dao động, bị dao động mạnh: "Thật bất hạnh cho ta, thật không may cho ta, thật rủi ro cho ta, thật không tốt đẹp cho ta. Dầu ta có niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, nhưng xả tương ưng với thiện không được an trú".

 

"But if, in the monk recollecting the Buddha, Dhamma, & Sangha in this way, equanimity based on what is skillful is established, then he is gratified at that. And even to this extent, friends, the monk has accomplished a great deal.


Chư Hiền, nếu Tỷ- Kheo ấy niệm Phật như vậy, niệm Pháp như vậy, niệm Tăng như vậy, và xả tương ưng với thiện được an trú. Do vậy, Tỷ-kheo ấy được hoan hỷ. Chư Hiền, cho đến mức độ này, Tỷ-kheo đă làm thật nhiều.

 

The Space Property



Không giới

 

"Friends, just as when — in dependence on timber, vines, grass, & clay — space is enclosed and is gathered under the term 'house,' in the same way, when space is enclosed in dependence on bones, tendons, muscle, & skin, it is gathered under the term, 'form.'


Chư Hiền, như một khoảng trống được bao vây bởi cây gậy, bởi dây leo, bởi cỏ, bởi bùn, được biết là một nhà ở. Cũng vậy, Chư Hiền, một khoảng trống được bao vây bởi xương, bởi dây gân, bởi thịt, bởi da, được biết là một sắc pháp.

 

Dependent Co-arising



Lư duyên khởi

 

-"Now if internally the eye is intact but externally forms do not come into range, nor is there a corresponding engagement, then there is no appearing of the corresponding type of consciousness.
-If internally the eye is intact and externally forms come into range, but there is no corresponding engagement, then there is no appearing of the corresponding type of consciousness.
-But when internally the eye is intact and externally forms come into range, and there is a corresponding engagement, then there is the appearing of the corresponding type of consciousness.



-Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, nhưng ngoại sắc không vào trong tầm mắt, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp không có hiện khởi.
-Chư Hiền, nếu nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp không có hiện khởi.
-Chư Hiền, chỉ khi nào nội mắt không bị hư hại, ngoại sắc vào trong tầm mắt, có sự quy tục xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp có hiện khởi.

 

-"The form of what has thus come into being is gathered under the form clinging-aggregate.
-The feeling of what has thus come into being is gathered under the feeling clinging-aggregate.
-The perception of what has thus come into being is gathered under the perception clinging-aggregate.
-The fabrications of what has thus come into being are gathered under the fabrication clinging-aggregate.
-The consciousness of what has thus come into being is gathered under the consciousness clinging-aggregate.
One discerns, 'This, it seems, is how there is the gathering, meeting, & convergence of these five clinging-aggregates.

Now, the Blessed One has said:
"Whoever sees dependent co-arising sees the Dhamma; whoever sees the Dhamma sees dependent co-arising."3
And these things — the five clinging-aggregates — are dependently co-arisen.4 Any desire, embracing, grasping, & holding-on to these five clinging-aggregates is the origination of stress. Any subduing of desire & passion, any abandoning of desire & passion for these five clinging-aggregates is the cessation of stress.' 5 And even to this extent, friends, the monk has accomplished a great deal.



-Bất cứ sắc pháp ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn;
-Bất cứ cảm thọ ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn;
-Bất cứ tưởng ǵ được hiện khởi như vậy đều được quy tụ trong tưởng thủ uẩn;
-Bất cứ hành ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn;
-Bất cứ thức ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn.
Vị ấy tuệ tri như sau: "Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập hợp, sự ḥa hợp của năm thủ uẩn này.
Thế Tôn đă nói như sau:
"Ai thấy được lư duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lư duyên khởi".
Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt". Cho đến mức độ này, Chư Hiền, Tỷ-kheo đă làm rất nhiều.

 

"Now if internally the ear is intact...



Chư Hiền, nếu nội tai không bị hư hại.....

 

"Now if internally the nose is intact.....



Nếu lỗ mũi không bị hư hại.....

 

"Now if internally the tongue is intact.....



Nếu lưỡi không bị hư hại.

 

"Now if internally the body is intact...



Nếu thân không bị hư hại...

 

"Now if internally the intellect is intact but externally ideas do not come into range, nor is there a corresponding engagement, then there is no appearing of the corresponding type of consciousness. If internally the intellect is intact and externally ideas come into range, but there is no corresponding engagement, then there is no appearing of the corresponding type of consciousness. But when internally the intellect is intact and externally ideas come into range, and there is a corresponding engagement, then there is the appearing of the corresponding type of consciousness.



Nếu nội ư căn không bị hư hại nhưng ngoại pháp không vào trong tầm của ư căn, không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, nếu nội ư căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ư căn, nhưng không có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp không có hiện khởi. Chư Hiền, chỉ khi nào nội ư căn không bị hư hại, ngoại pháp vào trong tầm của ư căn, có sự quy tụ xúc chạm thích hợp, th́ thức phần thích hợp có hiện khởi.

 

"The form of what has thus come into being is gathered under the form clinging-aggregate. The feeling of what has thus come into being is gathered under the feeling clinging-aggregate The perception of what has thus come into being is gathered under the perception clinging-aggregate. The fabrications of what has thus come into being are gathered under the fabrication clinging-aggregate. The consciousness of what has thus come into being is gathered under the consciousness clinging-aggregate. One discerns, 'This, it seems, is how there is the gathering, meeting, & convergence of these five clinging-aggregates. Now, the Blessed One has said, "Whoever sees dependent co-arising sees the Dhamma; whoever sees the Dhamma sees dependent co-arising." And these things — the five clinging-aggregates — are dependently co-arisen. Any desire, embracing, grasping, & holding-on to these five clinging-aggregates is the origination of stress. Any subduing of desire & passion, any abandoning of desire & passion for these five clinging-aggregates is the cessation of stress.' And even to this extent, friends, the monk has accomplished a great deal."



Bất cứ pháp ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong sắc thủ uẩn; bất cứ cảm thọ ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thọ thủ uẩn; bất cứ tưởng ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong tưởng thủ uẩn; bất cứ hành ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong hành thủ uẩn; bất cứ thức ǵ được hiện khởi như vậy đều quy tụ trong thức thủ uẩn. Vị ấy tuệ tri như sau: "Như vậy, như người ta nói, có sự quy tụ, sự tập họp, sự ḥa hợp của năm thủ uẩn này. Thế Tôn đă nói như sau: "Ai thấy được lư duyên khởi, người ấy thấy được pháp; ai thấy được pháp, người ấy thấy được lư duyên khởi". Những pháp này do duyên khởi lên chính là năm thủ uẩn. Sự tham dục, chấp trước, tham đắm, mê say trong năm thủ uẩn này tức là khổ tập; sự nhiếp phục tham dục, sự từ bỏ tham dục tức là sự khổ diệt". Cho đến mức độ này, chư Hiền, Tỷ-kheo đă làm rất nhiều.

 

That is what Ven. Sariputta said. Gratified, the monks delighted in Ven. Sariputta's words.



Tôn giả Sariputta thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Tôn giả Sariputta dạy.

 

Notes

1. The compilers of the Pali canon used a common theory to explain the physics of heat & motion, meteorology, and the etiology of diseases. That theory centered on the concept of 'dhatu': property or potential. The physical properties presented in this theory were four: those of earth (solidity), liquid, fire, & wind (motion). Three of them — liquid, fire, & wind — were viewed as potentially active. When they were aggravated, agitated or provoked — the Pali term here, 'pakuppati,' was used also on the psychological level, where it meant angered or upset — they acted as the underlying cause for activity in nature. For more on this topic, see The Mind Like Fire Unbound, Chapter 2.

2. AN 7.46 (quoted in The Mind Like Fire Unbound) cites a wing bone and tendon parings as examples of items that will not catch fire. Perhaps the passage was meant as a comical parody of someone who, having seen another person start fire with a fire stick, tried to imitate that person without understanding the basic principle involved. If you used a fire stick and wood shavings, you would get fire. If you used a wing bone instead of a fire stick, and tendon parings instead of wood shavings, you wouldn't.

3. This statement has not been traced in any other part of the extant Pali canon.

4. See SN 12.2.

5. Although the fourth noble truth — the path of practice leading to the cessation of stress — is not explicitly mentioned in this discussion, it is implicit as the path of practice leading to the subduing of desire & passion, the abandoning of desire & passion for the five clinging-aggregates.

 

See also: SN 22.5; Sn 4.9.